• :
  • :
Nâng cao chất lượng - Tạo dựng niềm tin!
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Xử lý đảng viên vi phạm sinh con thứ 3

Thời gian qua, ngành dân số đã có nhiều biện pháp tuyên truyền, lồng ghép các đề án, chương trình với mục đích nâng cao nhận thức cho người dân về việc thực hiện chính sách dân số song nỗ

Thời gian qua, ngành dân số đã có nhiều biện pháp tuyên truyền, lồng ghép các đề án, chương trình với mục đích nâng cao nhận thức cho người dân về việc thực hiện chính sách dân số song nỗ lực của ngành thực sự không dễ dàng. Tâm niệm cuộc sống khá giả thì nên sinh thêm con, nhất là sinh cho được con trai để nối dõi tông đường đang là nguyên nhân cốt lõi dẫn đến tăng tỷ lệ sinh con thứ 3 ở tất cả địa phương.

Do không phù hợp với tình hình thực tiễn nên tại Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình mới. Trong Nghị quyết 21 đã rà soát, điều chỉnh hoặc bãi bỏ một số quy định về xử lý vi phạm trong công tác dân số; Đồng thời đề cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ đảng viên trong thực hiện chủ trương chính sách về dân số, nhất là sinh đủ 2 con  xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc. Đối với người dân, Nghị quyết nêu rõ là cần tiếp tục vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con, đảm bảo quyền và trách nhiệm trong việc sinh con và nuôi dạy con tốt. Thế nhưng nhiều người, trong đó có cán bộ và đảng viên lại nhầm tưởng hoặc cố tình hiểu sai nhà nước không hạn chế sinh đẻ nữa để vi phạm chính sách dân số. Tại Điều 27 của Quy định 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Ban chấp hành Trung ương nêu rõ việc xử lý kỷ luật Đảng viên sinh con thứ ba như sau

1- Đảng viên vi phạm một trong các trường hợp sau gây hậu quả ít nghiêm trọng hoặc vi phạm trong trường hợp sinh con thứ ba (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác) thì kỷ luật bằng hình thức khiển trách:

a) Cản trở, cưỡng bức thực hiện kế hoạch hóa gia đình; tham gia các hoạt động xét nghiệm, chuẩn đoán để xác định giới tính thai nhi trái quy định.

b) Khai báo hoặc xin xác nhận, giám định không trung thực về tình trạng sức khỏe của vợ (chồng), con để thực hiện không đúng quy định hoặc để trốn tránh không bị xử lý do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

2- Trường hợp vi phạm đã bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Khoản 1 Điều này mà tái phạm hoặc vi phạm lần đầu gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc vi phạm trong trường hợp sinh con thứ tư (trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác) thì kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ).

3- Trường hợp vi phạm quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc vi phạm trong trường hợp sinh con thứ năm trở lên hoặc vi phạm trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ:

Gian dối trong việc cho con đẻ hoặc nhận nuôi con nuôi mà thực chất là con đẻ nhằm cố tình sinh thêm con ngoài quy định.

Như vậy, căn cứ quy định nêu trên thì trường hợp Đảng viên vi phạm quy định về sinh con thứ ba (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác) tùy từng trường hợp có thể bị kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ), nghiêm trọng hơn có thể bị khai trừ khỏi Đảng.

Những trường hợp Đảng viên sinh con thứ ba không vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình:

Căn cứ tại Điểm c Khoản 10 Mục III Hướng dẫn 09-HD/UBKTTW năm 2013 thực hiện Quy định 181-QĐ/TW về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm do Ủy ban kiểm tra Trung ương ban hành thì những trường hợp sau đây không vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình:

– Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân (tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

– Cặp vợ chồng sinh lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên.

– Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên.

– Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi.

– Cặp vợ chồng sinh con lần thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận.

– Cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ):

+ Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng (con đẻ).

+ Sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng (con đẻ). Quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống.

– Phụ nữ chưa kết hôn sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh”.

– Sinh con thứ ba trở lên trước ngày 19-01-1989 (ngày có hiệu lực thi hành Quyết định số 162-HĐBT, ngày 18-10-1988 của Hội đồng Bộ trưởng “Về một số chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình”).


Nguồn:trungtamytecoto.vn Copy link
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan
Chưa có thông tin